Các giải pháp
Xây dựng một hàng rào kỹ thuật về tiêu chuẩn thành lập doanh nghiệp bảo hiểm(DNBH) và hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Đây sẽ là một sự sang lọc cần thiết hợp lý không vi phạm WTO nhằm lựa chọn tốt nhất các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước có nguyện vọng thành lập DNBH hoạt động tại VN lâu dài và đóng góp cho sự phát triển thị trường bảo hiểm. Những tiêu chuẩn cơ bản bao gồm:
Lịch sử và kinh nghiệm tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm của người tham gia thành lập,
Dự kiến các sản phẩm bảo hiểm Việt Nam đưa ra thị trường phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế xã hội, không tạo ra cạnh tranh gay gắt và góp phần phát triển thị trường bảo hiểm,
Có bộ máy tổ chức lãnh đạo điều hành và nghiệp vụ bảo hiểm năng lực thể hiện ở kinh nghiệm và bằng cấp của người đảm nhiệm từng chức vụ,
Có hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng nhu cầu triển khai phát triển sản phẩm bảo hiểm, quản lý giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm,
Có nguồn vốn chủ sở hữu lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định để đảm bảo kinh doanh bảo hiểm tại VN lâu dài, tạo điều kiện đầu tư công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu phát triển và đảm bảo biên khả năng thanh toán cho khách hàng.
Hoàn thiện từng bước luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn phù hợp với cam kết WTO, phù hợp với chuẩn mực quốc tế quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Chúng ta đã tiến hành sửa đổi một số Nghị định, Thông tư hướng dẫn Luật kinh doanh bảo hiểm và ban hành NĐ 45, NĐ 46 (thay thế NĐ 42, NĐ 43) ngày 27/3/2007, Thông tư 155, Thông tư 156 (thay thế TT 98, 99) ngày 20/12/2007, QĐ 96 của Bộ Tài chính ngày 19/11/2007 ban hành Quy chế triển khai sản phẩm bảo hiểm liên kết chung và QĐ 102 ngày 14/12/2007 ban hành Quy chế triển khai sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị. QĐ 23 của Bộ Tài chính ngày 9/4/2007 ban hành Quy tắc biểu phí BHBB TNDS chủ xe cơ giới, QĐ 28 Bộ Tài chính ngày 24/4/2007 ban hành Quy tắc biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Bộ Tài chính dang tiến hành sửa đổi bổ sung NĐ 115 về chế độ BHBB TNDS chủ xe cơ giới, NĐ 118 về xử phạt hành chính trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Các văn bản là cơ sở để tiến tới sửa đổi Luật kinh doanh bao hiem Viet Nam vào năm 2009. NĐ 45, NĐ 46, TT 155, TT 156 đã tạo ra được rào cản kỹ thuật để sang lọc các DNBH muốn được thành lập và hoạt đọng như tăng vốn pháp dịnh từ 70 tỉ lên 300 tỉ đối với doanh nghiệp phi nhân thọ, 140 tỉ đồng lên 600 tỉ đồng đối với nhân thọ, tổ chức nước ngoài đứng ra thành lập DNBH phải có trên 10 năm hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tổng tài sản trển 2 (hai) tỉ USD, quy định về năng lực quản lý và chuyên môn cho các chức danh chủ tịch và ủy viên Hội đồng quản trị, Giám đốc và Phó giám đốc chi nhành và trước các phòng ban, điều kiện mở thêm chi nhánh và phòng kinh doanh. Tiến tới đén năm 2010 sửa đổi Luật kinh doanh bao hiem Viet Nam phù hợp với tiêu chuẩn, chuẩn mực quản lý và tổ chức hoạt động kinh doanh bao hiểm và bảo vệ quyền lợi ích khách hàng ngày một tốt hơn.
Hình thành bộ máy quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đủ mạnh để thực hiện việc hậu kiểm đạt kết quả cao.
Trước hết cần sắp xếp lại bộ máy tổ chức Vụ Quản lý Bảo hiểm – Bộ Tài chính, nâng cấp thành Cục Quản lý Bảo hiểm. Trong đó, có bộ phận Thanh tra Bảo hiểm có quyền ra quyết định xử phạt những vi phạm trong hoạt động KDBH, bộ phận nghiên cứu định hướng phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam trong từng giai đoạn làm cơ sở cấp phép thành lập DNBH và ban hành các văn bản pháp quy.
Thứ hai là cần thành lập Cơ quan giám sát các dịch vụ tài chính trực thuộc chính phủ. Cơ quan này có chức năng tiếp nhận báo cáo hoạt động, kiểm tra xử phạt các hoạt động KDBH, chứng khoán, cho thuê tài chính, đầu tư tài chính, ngân hàng, tín dụng. Việc kiểm soát liên ngành sẽ không cho phép tạo kẽ hở dấu rủi ro khiếm khuyết của ngành này đến khi phát hiện ra sẽ kéo theo sự ảnh hưởng của ngành khác như ngân hàng cho vay quá nhiều vào chứng khoán và bất động sản làm tăng trưởng bong bóng của 2 ngành này đến khi bất động sản đóng băng, chứng khoán giảm giá ảnh hưởng đến sự suy sụp của ngân hàng, bảo hiểm và các dịch vụ tài chính khác.
Cần có sự biến đổi về chất của các DNBH nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, khả năng hội nhập quốc tế sâu rộng, phù hợp với mô hình phát triển DNBH theo chuẩn mực quốc tế.
Trước hết, phải tập trung vào công nghệ thông tin, đáp ứng nhu cầu quản lý BH từ khâu khai thác, theo dõi hợp đồng, khách hàng, tiếp nhận thông tin từ khách hàng, xử lý sự cố thiên tai, tai nạn, giám định bồi thường, tính phí, đánh giá rủi ro. Các DNBH trước đây đã đầu tư nhiều vào công nghệ thông tin nhưng thiếu đồng bộ nên ít nhiều đã có thất bại hoặc hiệu quả ứng dụng điều hành không cao. Con đường ngắn nhất là từng DNBHVN lựa chọn đối tác chiến lược để tiếp thu kinh nghiệm, năng lực quản lý điều hành DN cũng như tiếp thu những phần mềm quản lý điều hành của họ mang tính hệ thống và thực tiễn ứng dụng hiệu quả cao.
Thứ hai là tập trung cho công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực mang tính hệ thống, bài bản với những nội dung, chương trình đào tạo chuẩn mực quốc tế thay cho lối đào tạo truyền bá kinh nghiệm, kiến thức của người đi trước dạy bảo người đi sau. Đối với các DNBH Phi nhân thọ cần từng bước tăng dần tỉ trọng khai thác BH qua khâu trung gian là môi giới và đại lý BH, tinh giảm biên chế đội ngũ cán bộ khai thác trước đây để đào tạo họ thành những cán bộ quản lý BH giỏi, nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm, mở rộng dịch vụ chăm sóc khách hàng ngày một tốt hơn. Ngoài ra, các DNBH cả nhân thọ và phi nhân thọ cần có những chương trình tuyển dụng, đào tạo, sử dụng chế độ đãi ngộ thích hợp cho những đại lý BH từ lúc mới tuyển dụng đến bước thăng tiến sau này sao cho có chất lượng và đảm bảo thu nhập ngày càng cao, tạo ra đội ngũ BH chuyên nghiệp, chuyên tâm với nghề, cống hiến cho DN.
Thứ ba là cần tạo ra thế mạnh hơn hẳn của DNBHVN về địa lý, văn hóa, pháp luật để cạnh tranh với các DNBH nước ngoài không hoạt động tại VN.
Thế mạnh địa lý tạo cơ hội cho DNBH tiếp cận trực tiếp với khách hàng, đầu tư mở rộng các dịch vụ gia tăng cho khách hàng (như khám bệnh điều trị tại bệnh viện bác sĩ nổi tiếng VN, bảo dưỡng xe, chữa xe không thuộc tai nạn bảo hiểm được giảm giá…) và giải quyết việc giám định cũng như bồi thường nhanh nhất, trực tiếp tới khách hàng.
Thế mạnh về văn hóa tạo điều kiện cho các DNBH hiểu biết được mục đích, nhu cầu, mong muốn của khách hàng tiềm năng trước khi lựa chọn sản phẩm BH và DNBH để đáp ứng như: phương pháp tiếp cận khách hàng, cách thức tuyên truyền vận động khách hàng mua BH, nhu cầu của khách hàng về sản phẩm BH để có thể mở rộng phạm vi BH hoặc đưa ra sản phẩm BH mới, những khó khăn vướng mắc mà khách hàng cần DNBH cùng tháo gỡ…
Thế mạnh về pháp luật là điều quan trọng nhất vì người được BH sẽ được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước pháp luật VN. Hồ sơ và thủ tục đòi bồi thường, biên bản giám định, chứng từ chứng minh thiệt hại dễ dàng thực hiện tại VN và được luật pháp VN công nhận. Nếu có gì không thỏa thuận được khách hàng có thể kiện DNBH ra Tòa án VN. Đây là lợi thế hơn hẳn. Nếu một số khách hàng tham gia BH với DNBH đang hoạt động tại nước ngoài có thể họ yêu cầu chứng thu giám định tổn thất tại một công ty giám định có uy tín quốc tế không công nhận những kết quả của cơ sở y tế, cơ quan công an, chính quyền địa phương như các DNBHVN thường làm. Mặt khác, bộ hồ sơ bồi thường nếu có một loại giấy tờ nào đó do sơ suất về ngày tháng năm, số lượng, đơn giá, trị giá, người lập không phù hợp với giấy tờ còn lại có thể bị từ chối bồi thường mà không được làm lại. Giải quyết tranh chấp với DNBH đang hoạt động ở nước ngoài là rất khó khăn về ngôn ngữ, luật sư, nguồn luật và Tòa đứng ra xét xử nên người được BH sẽ khó có thể theo đuổi vụ kiện hoặc thắng kiện.
Các DNBHVN cần có sự hợp tác hơn nữa
Nói đến thị trường tất yếu phải có sự cạnh tranh. Cạnh tranh không phải là để chia rẽ, phân hóa các DNBH mà trong cạnh tranh sẽ tạo tiền đề để các DNBH tiến tới hợp tác song phương, đa phương thậm chí tiến tới việc mua bán, hợp nhất, sáp nhập DNBH để tạo nên một sức mạnh cạnh tranh tốt hơn. Khi vốn pháp định tăng (300 tỉ với DNBH phi nhân thọ, 600 tỉ với DNBH nhân thọ) vốn chủ sở hữu tăng (các DNBH tăng vốn) và số lượng DNBH trên thị trường VN ngày càng đông, với khả năng giữ lại lớn (10% vốn chủ sở hữu) tất yếu các DNBH phải tái BH lẫn nhau, tiến tới không phải tái bảo hiểm ra nước ngoài. Vì vậy, sẽ có sự thống nhất về sản phẩm BH (Quy tắc điều khoản, Biểu phí) và sẽ có sự hợp tác với nhau trong tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm. Ngoài ra, các DNBH càng cần hợp tác với nhau trong việc xây dựng dữ liệu quản lý BH đánh giá rủi ro, phân tích rủi ro, cung cấp thông tin về bồi thường, nguyên nhân tổn thất, phòng chống trục lợi BH.
Nâng cao vai trò của Hiệp hội Bao hiem Viet Nam và mạnh dạn giao dần cho Hiệp hội thực hiện các dịch vụ hành chính công
Sự hợp tác giữa các DNBH, xây dựng ngôi nhà chung mang tiếng nói chung, xây dựng chế độ tự quản của các DNBH tất yếu được xoay quanh trục là vai trò của HHBHVN. Thời gian qua, HHBH đã phát huy được vai trò trong tuyên truyền về BH; tư vấn, thẩm định đóng góp ý kiến xây dựng văn bản pháp quy; tổng hợp cung cấp thông tin đánh giá tình hình thị trường BHVN; tổ chức đào tạo tập huấn và hội thảo, xây dựng chế độ hợp tác và tự quản; mở rộng mối quan hệ hợp tác với các tổ chức kinh tế xã hội trong và ngoài nước. Song, thực tế, không ít DNBH chưa tôn trọng Hiệp hội. Các Quy tắc ứng xử, Quy chế, Thỏa thuận hợp tác luôn bị các DNBH vi phạm mà chưa có chế tài xử phạt. Thực chất, hoạt động của HH vẫn sống nhờ 100% vào kinh phí đóng từ DNBH. Để HH có tiếng nói khách quan, có thể phát huy vai trò của mình thì cần từng bước tăng thu nhập của HH, giảm dần sự đóng góp kinh phí từ các DNBH. Đó chính là giao cho HHBH thực hiện các công việc hành chính công. Trước mắt, có thể giao cho HHBH là nơi duy nhất tổ chức kiểm tra cấp chứng chỉ đại lý BH Nhân thọ, Phi nhân thọ. Làm được việc này sẽ nâng cao rõ rệt chất lượng đào tạo, tuyển dụng đại lý, đồng thời ngăn chặn được việc tạo ra đội ngũ đại lý BH khống, chi hoa hồng khống cho đại lý khi DNBH vừa là người đào tạo cấp chứng chỉ vừa sử dụng và chi hoa hồng đại lý. Sau đó, HHBH sẽ là người được quyền thu các dịch vụ tư vấn phản biện đóng góp ý kiến văn bản pháp quy, thu từ dịch vụ duy trì hợp đồng và cung cấp thông tin từ phần mềm quản lý dữ liệu quản lý BH thống nhất, thu từ dịch vụ đào tạo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét